Bất kỳ một một loại sản phẩm nào đều phải trải qua nghiên cứu phát triển, dùng thử sản phẩm rồi mới dần trở nên hoàn thiện và sơn nước cũng vậy. Sơn nước cũng đã trải qua một loạt các giai đoạn phát triển, giai đoạn đầu sơn nước có nhiều khuyết điểm như tính chịu nhiệt kém. hiệu quả sơn kém. Nhưng cùng với sự hoàn thiện trong kỹ thuật, những khuyết điểm này dần được khắc phục. Tiếp theo hãy cùng nhìn lại lịch trình phát triển của sơn nước.
Sơn dầu đã đi sâu vào trong lòng của người tiêu dùng, rất nhiều người tiêu dùng còn thiếu hiểu biết về sơn dầu. Bao gồm một số ông chủ tiêu thụ sơn dầu hơn chục năm cũng hiểu rất ít về tác hại của sơn dầu. Sơn dầu sau 1 tháng mới có thể vào ở, người tiêu dùng cho rằng lúc này sơn dầu không còn độc tính nữa, thực ra suy nghĩ này là sai lầm. Không có mùi nồng nặc là do Formaldehyd bốc ra đến mức độ sinh lý con người có thể chấp nhận, còn ben-zen, Toluen, TDI tự do trong chất đông cứng và chất dung môi pha sơn của sơn dầu vẫn còn bốc ra. Những chất này muốn bốc ra hết ít nhất phải cần đến thời gian hơn chục năm, mà những vật chất Hiđrôcacbon thơm có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển trí lực của trẻ nhỏ chưa sinh và trẻ sơ sinh. TDI tự do còn có nguy cơ gây ung thư, ở những nước châu Âu phát triển sớm đã cấm sử dụng sơn dầu.
Về giai đoạn phát triển cơ bản mà nói, kỹ thuật sơn gốc nước chủ yếu trải qua 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn sơn gốc nước đầu tiên với nguyên liệu chính là Axit acrylic, ưu điểm của nó là chịu nước, chống chọi với thời tiết tốt. Khuyết điểm của nó là tính năng tổng hợp bình thường, tính năng hóa học tương đối thấp (ví dụ tính năng chịu Ancol, kiềm tương đối kém), chỉ tiêu vật lý như độ cứng, đội chịu mài mòn khá thấp. Đây là những nguyên nhân tồn tại khiến nhiều người cho rằng sơn gốc nước không tốt.
Giai đoạn sơn gốc nước thứ 2 với nguyên liệu chính là hợp chất Axit acrylic và PU gốc nước, không những thừa kế ưu điểm tính năng chống chọi với thời tiết, độ thích ứng thi công tốt của sản phẩm Axit acrylic giai đoạn trước, mà đồng thời cũng nâng cao độ cứng của sơn gốc nước. Nhưng tính năng hóa học vẫn khá thấp, hiện tại trong nước cũng chỉ có vài doanh nghiệp có thể sản xuất, là sản phẩm tầm trung trong ngành sơn gốc nước.
Sơn nước giai đoạn 3 với nguyên liệu chính là Axit acrylic và PU gốc nước cải tiến. Dựa trên nền tảng của sơn gốc nước giai đoạn 2 để nâng cao tính năng tổng hợp của sản phẩm lên nhiều lần. Độ cứng được đo bằng phương pháp bút chì có thể đạt đến trên 2H, đáp ứng nhu câu thường ngày. Tính năng chịu mài mòn thậm chí vượt qua sơn dầu. Tuổi thọ sử dụng, cách điều chế màu đều có ưu thế rõ rệt. Điều quan trọng hơn là tính năng hóa học ổn định, tính năng chị Ancol và chịu kiềm đều được tăng lên nhiều lần so với 2 gian đoạn trước, là sản phâm cao cấp trong ngành sơn gốc nước, kỹ thuật này được độc quyền bởi một vài nhà sản xuất trong và ngoài nước.
Tuy sơn gốc nước có ưu điểm như hiệu quả của màng sơn trong việc bảo vệ môi trường, nhưng sơn gốc nước 1 thành phần về tính năng độ cứng và chịu nhiệt độ cao vẫn có khoảng cách nhất định với sơn gốc dầu 2 thành phần. Ví dụ dùng trên bàn ăn và mặt sàn sẽ rất dễ cho thấy thiếu sót trong tính năng của nó. Những khuyết thiếu về tính năng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của sơn gốc nước. Sơn gốc nước giả hai thành phần cũng xuất hiện liên tục trên thị trường.
Trên thị trường có một bộ phận xưởng sản xuất sơn nhỏ bắt đầu đưa ra cái gọi là sơn gốc nước hai thành phần, nó thực ra là sản phẩm cải tiến từ sơn dầu. Tuy nhiên độ cứng của nó được nâng cao lên không ít, nhưng giống như sơn gốc dầu chứa lượng lớn vật chất độc hại, đi ngược với nguyện vọng ban đầu của sơn gốc nước là bảo vệ môi trường không độc hại và sức khỏe con người.
Tuy sơn gốc nước đãtrải qua các giai đoạn phát triển, cũng đã khắc phục một loạt những khuyết điểm nhưng cách điều chiế của sơn gốc nước trên thị trước có sự khác biệt rất lớn. Công ty TNHH công nghiệp sơn Mân Việt Hạ Môn, với nhiều năm nghiên cứu sản xuất sơn gốc nước, có đoàn đội nghiên cứu phát triển hùng hậu có kinh nghiệm rất hoan nghênh mọi người liên hệ tìm hiểu.